Print Sermon

Mục đích của trang mạng nầy là để cung cấp những bài giảng viết miển phí và những bài giảng trên vi-đi-ô đến các mục sư và giáo sĩ trên toàn thế giới, đặc biệt là Thế Giới Thứ Ba, là những nơi có rất ít chủng viện thần học hay trường Kinh Thánh.

Những bài giảng và vi-đi-ô này được truyền đến khoảng 1,500,000 máy vi tính trên 221 quốc gia mỗi tháng tại www.sermonsfortheworld.com. Hàng trăm người khác xem nó trên YouTube, nhưng họ sớm rời Youtube và đến với trang mạng của chúng ta, bởi vì mỗi bài giảng hướng họ rời khỏi Youtube mà đến trang mạng của chúng ta. Youtube cung cấp người đến với trang mạng của chúng ta. Bài giảng được chuyển dịch qua 46 ngôn ngữ đến với hàng ngàn người mỗi tháng. Những bài giảng không có bản quyền, cho nên những mục sư có thể sử dụng chúng mà không cần có sự cho phép. Xin vui lòng nhấn vào đây để tìm xem bạn có thể trợ giúp chúng tôi hàng tháng hầu cho việc rao truyền Phúc Âm quý báu này được lan rộng đến toàn thế giới, bao gồm cả các quốc gia Hồi Giáo và Ấn Độ Giáo.

Khi nào bạn viết cho Tiến sĩ Hymers, xin vui lòng cho ông biết bạn đang cư ngụ tại quốc gia nào, bằng không thì ông không thể trả lời cho bạn được. Điện thư (e-mail) của Tiến sĩ Hymers là rlhymersjr@sbcglobal.net.




SỰ THĂNG THIÊN CỦA CHÚA GIÊ-SU CHRIST

THE ASCENSION OF CHRIST
(Vietnamese)

bởi Tiến Sĩ R. L. Hymers, Jr.
by Dr. R. L. Hymers, Jr.

Bài giảng được giảng tại Baptist Tabernacle of Los Angeles
Sáng Chúa Nhật ngày 10 tháng 2 năm 2013
A sermon preached at the Baptist Tabernacle of Los Angeles
Lord’s Day Evening, February 10, 2013

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).


Giê-bu-sít là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm giữ thành Giê-ru-sa-lem sau một thời gian dài trong đất hứa mà dân sự của Đức Chúa Trời chiếm đóng. Nhưng Đa-vít và những thuộc hạ của ông cuối cùng đã lấy lại thành. Đa-vít nhớ thế nào những người lính của ông đã tấn công ồ ạt lên đỉnh cao của Giê-ru-sa-lem. Đây là núi của Đức Giê-hô-va, Núi Si-ôn, nơi mà Đền Thờ Đức Chúa Trời được xây dựng tại đó. Với những bài hát và những tiếng reo hò vui mừng, Đa-vít đã đem Hòm Giao Ước lên núi Si-ôn, đến một chổ, nơi mà di tích còn lại. Nhưng Đa-vít nhìn xa hơn cảnh tượng trần tục. Ông thấy Chúa Giê-su Christ thăng thiên, Ngài đi dẩn theo những phu tù, và đem chiến thắng cho dân sự của Ngài, đặng Ngài có thể ở giữa họ để làm Chúa và làm Đấng Cứu Chuộc. Và cũng trong Thi thiên đoạn 68, Đa-vít viết,

“Chúa đã ngự lên trên cao, dẩn theo những phu tù; Chúa đã nhận lễ vật giữa loài người, và giữa kẻ phản nghịch cũng vậy, hầu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời được ở với chúng nó” (Thi Thiên 68:18).

Mấy ngàn năm sau đó Sứ Đồ Phao-lô được cảm động bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời để ứng dụng những lời đó nói đến hậu tự Đa-vít, là Chúa Giê-su Christ, khi Ngài thăng thiên về Thiên Đàng, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Và vì vậy Sứ Đồ Phao-lô trích dẩn Thi thiên 68:18, ám chỉ đến sự sống lại của Chúa Giê-su Christ,

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).

Chúa Giê-su Christ đã đến trong thế gian, khi Ngài đến mang hình hài của một em bé được đặt nằm trong máng cỏ tại Bết-lê-hem. Ngài tự hạ mình xuống, hơn thế nữa Ngài đã trở thành “người của sự đau khổ, và từng trãi của sự buồn bực” (Ê-sai 53:3). Ngài hạ mình xuống thấp hơn khi tội lổi của chúng ta chồng chất trên Ngài trong Vườn Ghết-sê-ma-nê, khi Ngài mệt mỏi buồn bực, đau thương và mồ hôi “trở nên như những giọt máu lớn rơi xuống đất” (Lu-ca 22:44). Ngài hạ thấp xuống hơn nữa khi Ngài “vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2:8). Và Ngài vẩn hạ xuống thấp hơn nữa khi thân xác Ngài đặt nằm trong phần mộ. Như Sứ Đồ Phao-lô đã nói, “Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất” (Ê-phê-sô 4:9). Sự hạ xuống của Ngài dài và tối tâm, xuống trong sự nhục nhã, trong sự hoạn nạn và sự chết. Sâu thẳm trong sự đen tối và sự từ bỏ, Ngài khóc, “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46). Thấp trong phần mộ, Ngài nằm khi những tên lính La-mã niêm phong phần mộ lại và canh gác.

Nhưng đến ngày thứ ba, lúc tưng tưng sáng, đất rúng động, thiên sứ của Đức Chúa Trời đến lăn cửa mộ; Chúa Giê-su đã sống lại từ cỏi chết và bước ra khỏi phần một tối tăm đó vào trong ánh sáng ban mai!

Ha-lê-lu-gia ! Ha-lê-lu-gia ! Ha-lê-lu-gia !
Ba hôm tăm tối u sầu đã qua;
   Chúa thắng tử phủ bước từ mồ ra;
Vinh thay vua thánh Giê-su đầu ta! Ha-lê-lu-gia !
   Ha-lê-lu-gia ! Ha-lê-lu-gia ! Ha-lê-lu-gia !
(“Sự Xung Đột Đã Qua,” dịch lại bởi Francis Pott, 1832-1909).

Trong buổi sáng Phục Sinh đó Chúa Giê-su Christ bắt đầu bước lên sự vinh hiển của Ngài! Để minh chứng rằng Ngài đã sống lại từ trong sự chết, bằng thịt bằng xương, Ngài ở lại trên đất, và “Ngài lấy nhiều chứng cớ tỏ ra mình là sống, và hiện đến với các Sứ Đồ trong bốn mươi ngày” (Công-vụ-các-sứ-đồ 1:3). Ma-ri Ma-đơ-len và Gia-cơ đã thấy Ngài đơn độc. Mười một Môn Đồ khác thấy Ngài khi Ngài hiện ra đứng giữa họ, “Môn đồ dâng cho Ngài một miếng cá nướng, Ngài nhận lấy và ăn trước mặt môn đồ” (Lu-ca 24:42-43). Hai môn đồ về làng Em-ma-út đã nói chuyện với Ngài. Năm trăm người khác đã thấy Ngài cùng một lúc. Ngài nói với các Sứ Đồ, “Hãy xem tay chân ta: thật chính ta. Hãy rờ đến ta và hãy xem; thần thì không có thịt xương, mà các ngươi thấy ta có” (Lu-ca 24:39). Thô-ma đặt bàn tay mình vào dấu đinh trên tay Ngài, và ngay cả đặt bàn tay mình vào sườn Ngài, là nơi mủi giáo đã đâm xuyên qua Ngài trên cây thập tự. Sự thật về Chúa Giê-su đã chết đã được chứng minh bởi chổ hổng ngay vết thương đó. Và sự thật Chúa Giê-su đã sống lại từ cỏi chết đã được chứng minh bởi Thô-ma đã đặt bàn tay mình trên Chúa phục sinh. Không còn bất cứ nghi ngờ gì nữa, Chúa Giê-su Christ đã sống lại từ cỏi chết!

Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!
Dây xích ma quỷ xưa Ngài đập phăng,
   Nay trên thiên môn không còn rào ngăn,
Rao Giê-su thắng, ta ca trầm thăng. Ha-lê-lu-gia!
   Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia! Ha-lê-lu-gia!

Khi Ngài chứng minh cho họ thấy rằng Ngài đã sống lại từ cỏi chết, Chúa Giê-su Christ dẩn các Môn Đồ của Ngài đi đến Núi Ô-li-ve. Trong lúc các người đó nhìn xem Ngài, “Ngài được cất lên, có một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không thấy nữa” (Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 1:9). Chắn chắn nhà thơ đã không sai khi bà nói,

Đàn hạc vàng kêu lên, Tiếng thiên sứ rung vang,
   Cổng ngọc long lanh đã mở, Mở ra cho vị Vua:
Christ, vị Vua của Vinh Hiển, Giê-su, Vua Yêu Thương,
   Đã đi lên trong sự chiến thắng đến Ngôi của Ngài.
Tất cả công việc Ngài đã trọn, Vui mừng ta hát;
   Giê-su đã thăng thiên rồi: Vinh hiển đến Vua ta!
(“Đàn Hạc Vàng Kêu Lên ‘Golden Harps Are Sounding’
      bởi Frances R. Havergal, 1836-1879).

Chúa Giê-su Christ đã trở về trời là nơi Ngài đã đến. Ô, Chúa Giê-su Christ, ngợi khen Vua của cả vũ trụ! Ngợi khen đời đời Con của Đức Chúa Cha! Ngài ngồi trên ngôi rất cao trên Thiên Đàng, tôn lên đầy vinh hiển, mặc lấy quyền phép, Vua của các Vua và Chúa của các Chúa!

Giê-su, Đấng Cứu Thế, trị vì đời đời và đời đời;
   Hiến vương miện Ngài! Tiên tri, Thầy, và Vua!
Christ đã đến đây! Chiến thắng trên thế gian nầy,
   Thẩm quyền và vinh hiển thuộc về Chúa Chí Cao:
Tôn Ngài! Tôn Ngài! Kể về sự cao trọng to lớn của Ngài,
   Tôn Ngài! Tôn Ngài! Bài ca vui mừng muôn thuở!
(“Tôn Ngài! Tôn Ngài! ‘Praise Him! Praise Him!’
      bởi Fanny J. Crosby, 1820-1915).

Chúng ta trở lại với đoạn văn.

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).

Và từ đoạn văn chúng ta học được ba sự kiện vĩ đại về sự thăng thiên về Trời của Chúa Giê-su Christ.

I. Thứ nhất, chiến thắng khải hoàn của Chúa Giê-su Christ được nhìn thấy qua sự thăng thiên của Ngài.

Chúa Giê-su Christ đến thế gian để đánh lại những kẻ thù của Đức Chúa Trời và con người. Trận chiến nầy không phải bằng thịt và huyết, “bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy” (Ê-phê-sô 6:12). Chúa Giê-su Christ chiến đấu chống lại tội lổi, sự chết, và Địa Ngục. Ngài chiến đấu chống lại lòng căm thù Đức Chúa Trời và sự yêu thích một tôn giáo bị sai lạc. Ngài chiến đấu chống lại Chúa Quỷ và quỷ sứ nó. Ngài chiến đấu với những kẻ thù nầy đến nổi mồ hôi Ngài như những giọt Máu lớn rơi xuống đất, và “đã đổ mạng sống mình cho đến chết” (Ê-sai 53:12). Nhưng khi trận chiến kết thúc, Ngài đã sống lại vinh hiển từ trong cỏi chết và thăng thiên về trời ngồi trên ngôi của Đức Chúa Cha!

Sự tủi nhục, sự đau khổ và những lời báng bổ bây giờ lui ra xa đằng sau Ngài. Ngài đã đi lên vượt xa hơn ngoài tầm tay sự giểu cợt của người Sa-đu-sê và sự tố cáo buộc tội của người Pha-ri-si. Bây giờ, Giu-đa không thể hôn Ngài được. Phi-lát không thể trừng phạt Ngài bây giờ. Bây giờ Hê-rốt không thể nhạo báng Ngài. Ngài ở trên cao xa những kẻ thù của Ngài cho đến mãi mãi!

Ngài đã đến để cứu chúng ta, Ngài đổ huyết và chết,
   Bây giờ Ngài đội mão miện vinh hiển bên Cha của Ngài;
Không bao giờ đau đớn nữa, không bao giờ chết nữa,
   Giê-su, Vua của vinh hiển, ngồi trên ngôi cao sang.
(“Đàn Hạc Vàng Kêu Lên ‘Golden Harps Are Sounding’,” ibid.).

Công việc của Chúa Giê-su Christ trên đất đã hoàn tất. Khi Ngài thét lớn trên cây thập tự, “Mọi việc đã được trọn” không cần phải làm gì thêm nữa cho sự cứu rổi chúng ta. Bây giờ Ngài đang ngồi trên ngôi của Ngài như thầy tế lễ thượng phẩm đang cầu thay cho chúng ta. Bây giờ Danh của Ngài cao hơn trên hết mọi danh, và tất cả mọi việc đặt dưới chân Ngài! Đây là Chúa Giê-su Christ mà chúng ta tin cậy, và chúng ta yêu kính!

Và chúng ta đừng bao giờ quên những lợi ích mà đến với chúng ta qua Ngài. Đó là trong Ngài mà chúng ta nhận được tất cả phước hạnh. “Ngài đã lên nơi cao.” “Ngài dẩn muôn vàn kẻ phu tù.” Ngài “ban các ơn cho loài người.” Hãy để chúng ta vui mừng trong sự thăng thiên của Chúa Giê-su Christ lên ngai của Ngài. Sự thăng thiên của Ngài là bằng chứng cho sự chiến thắng của Ngài, và là chứng cớ của sự vinh quang của Ngài! Tất cả những việc cần yếu cho sự cứu rổi chúng ta bây giờ đều nằm trong sự thăng thiên của Chúa Giê-su Christ. Thật vậy, sự thăng thiên của Ngài tuyên bố là, “mọi việc đã được trọn” – tất cả những nhu cầu cần thiết cho sự cứu rổi chúng ta được tìm trong Chúa Giê-su Christ, đang ngồi bên hữu trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời!

II. Thứ hai, sự thăng thiên của Chúa Giê-su Christ đánh bại tất cả những kẻ thù của chúng ta.

Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu …” (Ê-phê-sô 4:8).

Chúng ta là nô lệ. Chúng ta là phu tù của tội lổi, nô lệ của Sa-tan, “thần đang hành động trong các con bạn nghịch” (Ê-phê-sô 2:2). Chúng ta là phu tù của sự tham muốn, phu tù của sự sai lầm, phu tù của sự lừa dối của tấm lòng mình. Nhưng Chúa Giê-su Christ đã “dẩn muôn vàn kẻ phu tù.” Đừng bao giờ quên rằng bạn là phu tù của tất cả những kẻ thù đó. Đừng bao giờ quên rằng bạn là phu tù mất hết niềm hy vọng giống như con cái Y-sơ-ra-ên tại xứ Ê-díp-tô, và giống như Pha-ra-ôn, Sa-tan đã giữ bạn trong cảnh tù tội ác nghiệt. Nhưng Chúa Giê-su Christ, Môi-se của chúng ta, đã giải phóng bạn được tự do! Trong sự thăng thiên của Ngài, “Ngài dẩn muôn vàn kẻ phu tù!” Ô, ngợi khen Danh Thánh của Ngài!

Không có gì lấy làm lạ khi có một số người ở đây trong buổi sáng hôm nay là những người vẩn còn là nô lệ cho Sa-tan, Hoàng Tử của sự tối tăm ghê rợn. Bạn đã “bị ma quỷ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (2 Ti-mô-thê 2:26). Nhưng Chúa Giê-su Christ đã thăng thiên về trời để giải phóng bạn ra khỏi sự xấu xa ghê rợn đó! Hãy tin cậy Chúa Giê-su Christ đã sống lại, và Ngài sẽ giải phóng bạn ra khỏi mưu chước của Sa-tan, khỏi sự lên án của tội lổi, và khỏi nọc độc của sự chết! Tôi biết đó là sự thật bởi vì Chúa Giê-su đã làm điều đó cho tôi! “Ngài dẩn muôn vàn kẻ phu tù” và Ngài đã cứu tôi trong cánh tay quyền năng của Ngài!

Ngài vực tôi thoát khỏi chốn tội tình,
   Dùng tay âu yếm cứu vớt thân linh,
Từ trong hang thẳm lên chốn cao thay,
   Đáng ngợi Giê-su, Đấng vớt tôi rày!
(“Ngài Vực Tôi” bởi Charles H. Gabriel, 1856-1932).

III. Thứ ba, Chúa Giê-su Christ thăng thiên cung ứng các ơn cho chúng ta.

Cả câu Kinh Thánh nói rằng,

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).

Trong mạch văn của thư Ê-phê-sô, đoạn bốn, chúng ta đọc một vài cái ân tứ mà Chúa Giê-su Christ thăng thiên ban cho chúng ta,

“Đấng đã xuống tức là Đấng đã lên trên hết các từng trời, để làm cho đầy dẫy mọi sự. Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư” (Ê-phê-sô 4:10-11).

Ngài ban cho chúng ta những Sứ Đồ, là những người đã viết hầu hết các sách trong Tân ước để cho chúng ta đọc. Ngài ban cho chúng ta những tiên tri để cảnh tỉnh chúng ta. Ngài ban cho chúng ta những người rao giảng phúc âm để giảng Phúc Âm cho chúng ta. Ngài ban cho chúng ta những mục sư để hướng dẩn chúng ta. Ngài ban cho chúng ta những giáo sư để giảng giải Kinh Thánh và ứng dụng kinh Thánh cho chúng ta. Ngài ban những người có ơn nầy,

“Để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ, cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời, mà nên bậc thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ. Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc, nhưng muốn cho chúng ta lấy lòng yêu thương nói ra lẻ chân thật, để trong mọi việc chúng ta đều được thêm lên trong Đấng làm đầu, tức là Đấng Christ. Ấy nhờ Ngài mà cả thân thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho thân thể lớn lên, và tự gây dựng trong sự yêu thương” (Ê-phê-sô 4:12-16).

A-men! Hãy đọc những lời viết của các Sứ đồ. Những lời viết đó là những quà tặng từ Chúa Giê-su Christ thăng thiên! Hãy nghe những lời của các tiên tri, và nhận phúc lợi từ đó. Những lời của họ là quà tặng từ Chúa Giê-su Christ thăng thiên! Lắng nghe mục sư của bạn, và tạ ơn Chúa đã ban cho mục sư đó. Ông là quà tặng từ Chúa Giê-su Christ thăng thiên. Hãy làm những điều giống như vậy với những giáo sư từ Ngài gởi đến để hướng dẩn bạn! Vâng, Ngài “ban các ơn cho loài người.” Hãy ca ngợi Danh của Ngài!

Một món quà cao quý khác mà Chúa Giê-su gởi cho chúng ta trong sự thăng thiên của Ngài là lời hứa về sự Trở Lại của Ngài. Sự hạ sinh của Ngài trên trái đất đảm bảo chắc chắn cho sự thăng thiên về Thiên Đàng của Ngài, và sự ngự lên của Ngài cũng đảm bảo chắc chắn cho sự trở lại của Ngài một lần nữa. Chúa Giê-su nói,

“Khi Ta đã đi, và sắm sẳn cho các ngươi một chổ rồi, ta sẽ trở lại và đem các ngươi đi với ta …” (Giăng 14:3).

Lời hứa về sự Trở Lại của Ngài là một món quà rất cao quý cho những ai là Cơ Đốc Nhân thật sự, “hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác không có sự trông cậy” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13). Con người trong thế giới nầy không có bất cứ niềm hy vọng nào! Nhưng Cơ Đốc Nhân có tràn đầy niềm hy vọng,

“Vì sẽ có tiếng kêu lớn, và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Đức Chúa Trời, thì chính mình Chúa ở trên trời giáng xuống; bấy giờ, những kẻ chết trong Đấng Christ, sẽ sống lại trước hết, kế đến chúng ta là kẻ sống, mà còn ở lại sẽ cùng nhau đều được cất lên với những người ấy giữa đám mây, tại nơi không trung mà gặp Chúa, như vậy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn. Thế thì, anh em hãy dùng lời đó mà yên ủi nhau” (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:16-18).

Đó là hy vọng của chúng ta, ngay cả “sự trông cậy hạnh phước của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa của chúng ta, là Đức Chúa Giê-su Christ” (Tít 2:13). “Sự trông cậy hạnh phước” của sự trở lại của Chúa Giê-su Christ trên trái đất nầy là một món quà cao quý nhất bảo đảm chắc chắn cho chúng ta bởi sự thăng thiên về Trời của Ngài. Sự thăng thiên của Ngài bảo đảm cho sự trở lại của Ngài một lần nữa! Khi Ngài thăng thiên, các thiên sứ phán rằng, “Giê-su nầy đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy ngài lên trời vậy” (Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 1:11). A-men!

Ngài sẽ đến một lần nữa,
   Ngài sẽ đến một lần nữa,
Với quyền năng và vinh hiển lớn,
   Ngài sẽ đến một lần nữa!
(“Ngài Sẽ Đến Một Lần Nữa ‘He Is Coming Again’
      bởi Mabel Johnston Camp, 1871-1937).

Sự thăng thiên về Trời của Chúa Giê-su Christ bảo đảm cho chúng ta rằng Ngài sẽ trở lại một lần nữa cho chúng ta. Đó là món quà của niềm trông cậy hạnh phước mà Chúa Giê-su Christ ban cho những người thuộc về Ngài, “hầu cho anh em chớ buồn rầu như người khác không có sự trông cậy.” Thật là một món quà cao quý! A-men và A-men! Nhưng còn nữa.

Cho những người chưa được cứu, Chúa Giê-su Christ thăng thiên và Ngài gởi Đức Thánh Linh xuống. Chúa Giê-su nói,

“Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu ta không đi, Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu; song nếu ta đi, thì ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến thì sẽ khiến thế gian tự cáo về tội lổi, về sự công bình và về sự phán xét” (Giăng 16:7-8).

Chúa Giê-su Christ thăng thiên nói, “Ta sẽ sai Ngài đến.” Ngài gởi Đức Thánh Linh đến để “cáo trách thế gian tội lổi.” Đó không phải là một việc nhỏ. Đó là “công việc chủ yếu” của Đức Thánh Linh, là công việc chính của Ngài. Chúa Giê-su Christ sai Đức Thánh Linh đến kết án những tội nhân hư mất giống như bạn. Khi bạn cảm thấy mình có tội và bị lạc mất, đó không phải bởi vì bạn khác lạ hoặc “kỳ quặc.” Đó là vì Thánh Linh chỉ ra tội lổi của bạn, và cảnh cáo bạn về sự phán xét sẽ đến. Đức Thánh Linh lên án tội lỗi trong đời sống đạo đức của bạn, và làm cho bạn cảm thấy bạn cần đến Huyết của Chúa Giê-su Christ để rửa sạch tội lổi của bạn. Đừng coi thường lời nhắc nhở của Đức Thánh Linh. Vâng lời sự lên án của Ngài và chạy đến với Chúa Giê-su Christ bằng đức tin. Chúa Giê-su Christ sẽ tha thứ tội lổi của bạn và ban cho bạn sự bình an trong Chúa!

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).

Sự ban cho quan trọng nhất mà Chúa Giê-su Christ thăng thiên ban cho chúng ta là Huyết báu của Ngài! Huyết của Chúa Giê-su Christ có thể ban cho bạn ngay bây giờ. Huyết ở đó, trên Thiên Đàng, với Chúa Giê-su Christ. Và Kinh Thánh dạy, “Huyết của Chúa Giê-su, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta” (1 Giăng 1:7). Ngay khi bạn tin nhận Chúa Giê-su, Huyết của Ngài sẽ xóa sạch tội lổi của bạn – và bạn sẽ sẳn sàng để gặp Chúa và vui mừng trong Ngài mãi mãi! Chúng tôi cầu nguyện cho bạn rằng bạn sẽ tin nhận Đấng Cứu Rổi, và được rửa sạch tội lổi của bạn trong Huyết Thánh của Ngài! A-men!

Nếu bạn muốn nói chuyện với chúng tôi về sự cứu rổi, và trở thành Cơ Đốc Nhân thật sự, vui lòng bước ra phía sau hội trường trong khi chúng tôi hát bài Thánh Ca số bảy trong tập nhạc. Tiến Sĩ Cagan sẽ dẩn bạn đến chổ yên lặng để chúng tôi có thể nói chuyện và cầu nguyện cho bạn. Đi khi chúng tôi đang hát.

Giê-su là danh yêu quí con tôn thờ,
   Ngài cao quí xứng đáng như danh yêu quí Ngài,
Là lý do mà con yêu Ngài tôn cao Ngài;
   Ôi, Giê-su là danh yêu quí con tôn thờ.
(“Giê-su Danh Yêu Quí Con Biết ‘Jesus is the Sweetest Name I Know’
      bởi Lela Long, 1924).

Bác sĩ Chan, xin thay mặt cho chúng tôi cầu nguyện cho những ai đáp ứng lại.

(KẾT THÚC BÀI GIẢNG)
Bạn có thể đọc những bài giảng của Tiến Sĩ Hymers bằng tiếng Việt hằng tuần trên
trang mạng tại www.realconversion.com. Bấm vào “Bài giảng bằng tiếng Việt.”

Bạn có thể gởi điện thư bằng tiếng Anh cho Tiến Sĩ Hymers tại rlhymersjr@sbcglobal.net
hoặc bạn có thể gởi thư về địa chỉ P.O. Box 15308, Los Angeles, CA 90015. Hoặc gọi điện
thoại cho ông tại số (818) 352-0452.

Đọc Kinh Thánh Trước Bài Giảng bởi Ông Abel Prudhomme: Ê-phê-sô 4:4-13.
Đơn Ca Trước Bài Giảng bởi Ông Benjamin Kincaid Griffith:
“Đàn Hạc Vàng Kêu Lên ‘Golden Harps Are Sounding’ ”
(bởi Frances R. Havergal, 1836-1879).


DÀN BÀI CỦA

SỰ THĂNG THIÊN CỦA CHÚA GIÊ-SU CHRIST

bởi Tiến Sĩ R. L. Hymers, Jr.

“Ngài đã lên nơi cao, dẩn muôn vàn kẻ phu tù, và ban các ơn cho loài người” (Ê-phê-sô 4:8).

(Thi Thiên 68:18; Ê-sai 53:3; Lu-ca 22:44; Phi-líp 2:8;
Ê-phê-sô 4:9; Ma-thi-ơ 27:46; Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 1:3;
Lu-ca 24:42, 43, 39; Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 1:9)

I.   Thứ nhất, Chiến thắng khải hoàn của Chúa Giê-su Christ được nhìn thấy
qua sự thăng thiên của Ngài, Ê-phê-sô 6:12; Ê-sai 53:12.

II.  Thứ hai, sự thăng thiên của Chúa Giê-su Christ đánh bại tất cả kẻ thù của
chúng ta, Ê-phê-sô 2:2; 2 Ti-mô-thê 2:26.

III. Thứ ba, Chúa Giê-su Christ thăng thiên cung ứng các ơn phước cho chúng
ta, Ê-phê-sô 4:10-11, 12-16; Giăng 14:3; 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13, 16-18;
Tít 2:13; Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 1:11; Giăng 16: 7-8; 1 Giăng 1:7.