Print Sermon

Mục đích của trang mạng nầy là để cung cấp những bài giảng viết miển phí và những bài giảng trên vi-đi-ô đến các mục sư và giáo sĩ trên toàn thế giới, đặc biệt là Thế Giới Thứ Ba, là những nơi có rất ít chủng viện thần học hay trường Kinh Thánh.

Những bài giảng và vi-đi-ô này được truyền đến khoảng 1,500,000 máy vi tính trên 221 quốc gia mỗi tháng tại www.sermonsfortheworld.com. Hàng trăm người khác xem nó trên YouTube, nhưng họ sớm rời Youtube và đến với trang mạng của chúng ta, bởi vì mỗi bài giảng hướng họ rời khỏi Youtube mà đến trang mạng của chúng ta. Youtube cung cấp người đến với trang mạng của chúng ta. Bài giảng được chuyển dịch qua 46 ngôn ngữ đến với hàng ngàn người mỗi tháng. Những bài giảng không có bản quyền, cho nên những mục sư có thể sử dụng chúng mà không cần có sự cho phép. Xin vui lòng nhấn vào đây để tìm xem bạn có thể trợ giúp chúng tôi hàng tháng hầu cho việc rao truyền Phúc Âm quý báu này được lan rộng đến toàn thế giới, bao gồm cả các quốc gia Hồi Giáo và Ấn Độ Giáo.

Khi nào bạn viết cho Tiến sĩ Hymers, xin vui lòng cho ông biết bạn đang cư ngụ tại quốc gia nào, bằng không thì ông không thể trả lời cho bạn được. Điện thư (e-mail) của Tiến sĩ Hymers là rlhymersjr@sbcglobal.net.




NHỮNG BẰNG CHỨNG CỦA SỰ SANH BỞI NỮ ĐỒNG TRINH

PROOFS OF THE VIRGIN BIRTH
(Vietnamese)

bởi Tiến sĩ R.L. Hymers, Jr.
by Dr. R. L. Hymers, Jr.

Bài giảng được giảng tại Baptist Tabernacle of Los Angeles
Tối Chúa Nhật ngày 13 tháng 12 năm 2015
A sermon preached at the Baptist Tabernacle of Los Angeles
Lord's Day Evening, December 13, 2015

“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14).


Đây rỏ ràng là lời tiên tri về sự sanh ra của Chúa Giê-su Christ bởi nữ đồng trinh – trong Thánh Kinh Cựu Ước. Một số người gặp trở ngại với học thuyết Cơ Đốc vĩ đại nầy. Nhưng thật ra vấn đề của họ là họ không tin bất cứ loại phép lạ nào. Chủ nghĩa nhân bản thế tục đã đem họ ra khỏi tình trạng phép lạ có thể xảy ra – và đem họ ra khỏi Đức Chúa Trời!

Chúng tôi có chiếu cuộn phim của Ben Stein “Expelled (Trục Xuất)” một vài lần trước đây trong hội thánh của chúng tôi. Đối với tôi, thích thú nhất trong cuộn phim là phần phỏng vấn của Ông Stein với Tiến sĩ Richard Dawkins. Tiến sĩ Dawkins là người theo chủ thuyết tiến hóa lổi lạc trong thời đại của chúng ta. Ông dựng lên một cái bối cảnh của một quá trình tiến hóa trở lại qua những thời đại của thời gian. Nhưng, giống như tất cả những nhà tiến hóa, ông đối diện với một tình trạng khó xử là không biết phải giải thích thế nào với sự bắt đầu của sự sống. Ông Stein dồn ép ông trong câu hỏi nầy. Bạn có thể nhìn thấy rỏ môi của Dawkins rung rung. Stein dồn ép vào “sự sống đến từ đâu trong chổ đầu tiên”. Những giọt mồ hôi xuất hiện trên trán của Dawkins. Cuối cùng Dawkins nói rằng có thể những người ngoài không gian từ những hành tinh khác đã đến và “gieo” sự sống trên đất. Ông Stein nhãy vào câu đó. “Ý của ông là những người hành tinh khác có thể đến vào đem sự sống đến địa cầu này à?” Tôi nghĩ Dawkins đã quên là ông đang bị quay phim khi ông trã lời, “Đúng vậy.” Sau đó ông cố để kiện Ông Stein để lấy đoạn đó ra khỏi phim. Nhưng hợp đồng mà ông đã ký không cho phép ông thắng vụ kiện này.

Thật vô lý! Những người nhỏ trong chiếc phi thuyền vũ trụ đem sự sống đầu tiên đến địa cầu của chúng ta! Nghe ra như câu chuyện khoa học viễn tưởng cho em nhỏ! Cho dù ý tưởng ngớ ngẩn của Dawkin là sự thật, nó cũng vẫn không giải thích được sự sống bất đầu từ hành tinh khác! Nên chúng ta thấy, trong phim của Ông Stein, mức độ căng thẳng và kỳ quặc mà con người thế tục phải làm hay nói để tránh quyền phép của Đức Chúa Trời tạo dựng sự sống trên hành tinh của chúng ta.

C.S. Lewis nói, “Tôi dùng chữ phép lạ để có nghĩa là một sự can thiệp vào sự tự nhiên với một quyền năng siêu nhiên.” Lần nửa, C.S. Lewis nói, “Nếu chúng ta thừa nhận Đức Chúa Trời, có phải chúng ta thừa nhận Phép Lạ luôn không? Quả thật vậy, quả thật vậy.” (Những Phép LạMiracles’, tr. 105, 9).

C. S. Lewis nói có ý là nếu có một Đức Chúa Trời, phép lạ có thể xảy ra. Bạn không cần người nhỏ màu xanh đến và mang theo sự sống đến trái đất. Nếu có một Đức Chúa Trời thì Ngài có khả năng tạo dựng sự sống từ cỏi hư vô (từ không có gì). Chúa Giê-su phán, “Đức Chúa Trời làm mọi sự được cả” (Mác 10:27).

Má của tôi cải đạo vào lúc 80 tuổi. Không có lý do mỏng mảnh nào để tin rằng bà có thể cài đạo được. Không có chút nào. Tôi có thể thao thao bắt tuyệt và nói cho bạn biết tại sao tôi biết sự cải đạo của bà là một phép lạ, nhưng tôi không nói điều đó tối nay. Tôi sẽ cho bạn phép lạ mà đến trước khi sự cải đạo của bà. Tôi ở Thành Phố New York cùng với gia đình tôi. Má của tôi thì ở ba ngàn dặm cách đầy, ở Los Angeles. Tôi đang cầu nguyện thình lình, giữa sự cầu nguyện của tôi, tôi biết mẹ của tôi sẽ được cứu. Tôi điện thoại cho Tiến sĩ Cagan và xin ông đến và hướng dẩn bà tin nhận Đấng Christ. Ông rất sợ để đi bởi vì bà đã từng la hét ông khi ông đến gần trước đây. Nhưng tôi khăng khăng rằng Đức Chúa Trời mách bảo cho tôi là bà bây giờ sẽ được cứu. Cho nên ông lái xe qua chổ của bà và hướng dẩn bà, rất dể dàng, đến cùng Đấng Christ – và cả cuộc đời của bà được biến đổi. Vâng, đó là một phép lạ. Nhưng đó không phải là điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây. Làm sao tôi biết cách thình lình là bà sẽ cải đạo? Tôi cách bà tới ba ngàn dặm đường lận. Tôi chưa trò chuyện với bà qua điện thoại. Nhưng tôi biết. Làm sao? Đó là một phép lạ. Đức Chúa Trời mách bảo cho tôi bằng phép lạ. Nó chỉ là đơn giản như vậy.

Chính mẹ của tôi cũng không tin vào phép lạ. Bà là người nặng về chủ nghĩa nhân vân và việc nghiên cứu theo chủ thuyết tiến hóa. Đó là chổ phép lạ thứ ba đã xảy ra. Thứ nhất, Đức Chúa Trời cho tôi biết là bà sẽ được biến đổi. Thứ hai, bà đã được biến đổi. Nhưng đến phép lạ thứ ba, trong nhiều cách, vĩ đại nhất – ít nhất là đối với tôi.

Vài tháng sau khi mẹ tôi được biến đổi, tôi dẩn mẹ tôi với Ileana và các con trai của chúng tôi đến thăm người anh em bà con với tôi. Ông có mấy người bạn thân nghiện rượu nặng. Một trong những người vợ của họ cũng nữa tỉnh nữa say. Bà ấy biết tôi là mục sư, nên bà ấy ngồi ở bàn, đối diện tôi, và mở lời với tôi. “Những phép lạ đó xảy ra như thế nào? Làm thế nào mà Ngài cho 5,000 người ăn với chỉ vài con cá? Làm thế nào Ngài có thể sống lại từ kẻ chết? Làm thế nào có thể rẽ Biển Đỏ ra? Ha, ha, ha!”

Tôi chẳng nói lời nào. Tôi không muốn bắt đầu cho cuộc cải vả trong nhà của người anh em bà con của tôi. Mẹ của tôi ngồi bên cạnh tôi. Bất thần tôi thấy ánh mắt nẩy lửa của bà lóe lên. Không có ai dám nói chuyện gì với bà khi thấy ánh mắt nẩy lửa của bà lóe lên như vậy. Bà nhìn thẳng vào người đàn bà say rượu gằn từng giọng nói lớn, “Bà tin vào Đức Chúa Trời chứ?” Người đàn bà có vẽ lúng túng, đổi sắc mặt, trả lời thỏ thẻ, “Ờ, ờ...tin.” Mẹ tôi lườm bà một cái, và lớn tiếng hơn nói, “Thế, bị cái quái vậy?” Cả nhà hầu như yên lặng. Và kết thúc cuộc tranh luận về những phép lạ đó!

Thấy không, nếu bạn tin vào Đức Chúa Trời – thì như C.S. Lewis đã chỉ ra rằng – không có cuộc tranh luận chống lại phép lạ! Như Chúa Giê-su đã khẳng định, “Không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.” Và đó là điều đem chúng ta đến sự Đấng Christ Sanh Ra bởi Đồng Trinh. Tôi sẽ đưa ra cho bạn hai “bằng chứng” về sự Sanh Sa bởi Đồng Trinh của Chúa Giê-su Christ. Nhưng “những bằng chứng” nầy chỉ có thể thuyết phục bạn nếu như bạn tin vào Đức Chúa Trời. Nó không thể thuyết phục được bất cứ ai không tin vào sự thực hữu của Đức Chúa Trời.

I. Thứ nhất, Chúa Giê-su Christ sanh bởi nữ đồng trinh được chứng minh bởi Kinh Thánh Cựu Ước.

Lời tiên tri đầu tiên về sự sanh ra của Chúa Giê-su Christ bởi nữ đồng trinh là ở trong cảnh Vườn Ê-đen, một thời gian ngắn sau khi tổ phụ đầu tiên của chúng ta phạm tội chống nghịch lại với Đức Chúa Trời. Họ nghe theo lời Sa-tan cám dổ, và họ đã phạm tội. Và Đức Chúa Trời nói với Sa-tan,

“Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ, dòng dõi mầy cùng dòng dỏi người nữ nghịch thù nhau. Người sẽ giày đạp đầu mầy, còn mầy sẽ cắn gót chân người” (Sáng-thế-ký 3:15).

Ở đây Đức Chúa Trời đã cho ra lời tiên tri đầu tiên về Sự Sanh Ra bởi Đồng Trinh. Dòng dõi người nữ sẽ giày đạp đầu con rắn. Nhà thần học Cựu Ước của Lutheran, Tiến sĩ Claus Westermann (1909-2000) đã nói, “Từ thời của Irenaeus (130-202) Cơ Đốc Nhân truyền thống đã hiểu phân đoạn nầy như là lời tiên tri về Chúa Giê-su (và Ma-ri). ‘Dòng dõi của người đàn bà’ ám chỉ đến hậu tự duy nhất là [Đấng Christ] là Đấng giày đạp đầu con rắn [Sa-tan]…Sự giải thích này từ Irenaeus qua đến lịch sử luận bình trong cả Công Giáo và truyền thống phúc âm” (Claus Westermann, Ph.D., Sáng-thế-ký 1-11: Lời Chú Thích ‘Genesis 1-11: A Commentary,’ Augsburg, 1984, tr. 260).

Tiến sĩ Henry M. Morris đã nói, “Cái ‘sinh hạt của người nữ’ chỉ có thể là sự [tham khảo] đến con cháu tương lai của Ê-va người mà không có cha phần xác. Theo sinh lý, người nữ không có tạo sinh hạt…Cách dùng theo Kinh Thánh chỉ nói đến sinh hạt của đàn ông. Sinh hạt được hứa cho sẽ, vì thế, được cấy cách lạ lùng vào tử cung [của Ma-ri]. Trong cách này, Ngài [Đấng Christ] sẽ không thừa kế bản chất tội lỗi mà làm cho những người con trai khác từ A-đam không đủ tư cách để trở nên Đấng Cứu Chuộc khỏi tội lỗi. Lời tiên tri này vì thế rõ ràng đoán trước sự sinh ra tương lai bởi nữ đồng trinh của Đấng Christ” (Henry M. Morris, Ph.D., Học Kinh Thánh của Người Biện Hộ ‘The Defender’s Study Bible,’ Nhà Xuất Bản World Publishing, 1995, tr. 13; ghi chú trên Sáng-thế-ký 3:15).

Phân đoạn mở đầu của chúng ta cũng từ Cựu Ước. Tiên tri Ê-sai nói,

“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14).

Anh ngữ “đồng trinh” đây là dịch lại từ chữ Hê-bơ-rơ “almah.” Chữ này được dùng bảy lần trong Cựu Ước để nói đến người nữ trẻ chưa kết hôn. Edward E. Hindson đã nói, “Cách [sử dụng] luôn luôn bao hàm người nữ đồng trinh. Cách dùng almah trong Kinh Thánh rỏ ràng là không phải cho người nữ đã kết hôn rồi, mà luôn luôn về người nữ chưa kết hôn” (Edward E. Hindson, “Em-ma-nu-ên của Ê-sai ‘Isaiah’s Immanuel’,Tập Chí Ân Điển ‘Grace Journal’ 10, Mùa Thu, 1969, tr. 7). Nhà học giả lổi lạc J. Gresham Machen đã nói, “Không chổ nào trong bảy lần xuất hiện chữ almah trong Cựu Ước mà không phải dùng cho người nữ đồng trinh hết” (J. Gresham Machen, Ph.D., Đấng Christ Sanh bởi Nữ Đồng Trinh ‘The Virgin Birth of Christ,’ Baker Book House, 1965, tr. 288).

Nhưng bằng chứng lớn nhất là “almah” có nghĩa là “đồng trinh” là từ giáo sĩ Do Thái của 200 năm trước Chúa Giê-su Christ. Bảy mươi của những giáo sĩ Do Thái lổi lạc trên thế giới dịch Kinh Thánh Hê-bơ-rơ sang qua Hy-lạp, là ngôn ngữ mà đa số người Do Thái tại đất Rô-ma dùng. Những giáo sĩ Do Thái này được xem là lổi lạc nhất trong trên thế giới lúc bấy giời, 200 năm trước Chúa Giê-su Christ. Những giáo sĩ Do Thái đó dịch chữ Hê-bơ-rơ “almah” trong Ê-sai 7:14 bằng chữ Hy-lạp “parthenos” – mà chỉ có thể ám chỉ người nữ đồng trinh – là người phụ nữ chưa từng có quan hệ tình dục với người đàn ông. 70 người giáo sĩ Do Thái dịch Cựu Ước qua tiếng Hy-lạp. Nó được gọi là Bảy Mươi Dịch Giả (Septuagint). Tiến sĩ Ben Witherington III nói rằng nếu “almah” không có nghĩa là “đồng trinh,” thì “Nó rắt khó nếu không thể nào để thấy tại sao những người thông dịch [giáo sĩ Do Thái] của LXX [Septuagint] dùng ‘parthenos’ là từ Hy-lạp tương đương” (Ben Witherington III, Ph.D., “Sự Sanh Ra của Chúa Giê-su ‘The Birth of Jesus’ Tự Điển của Chúa Giê-su và những Phúc Âm ‘The Dictionary of Jesus and the Gospels,’ Nhà In InterVarsity, 1992, tr. 64).

Tất cả những bằng chứng này cho thấy rằng giáo sĩ Do Thái là đúng khi họ dịch Ê-sai 7:14 như

“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14).

Duy nhất trong lịch sử chỉ có một người đàn bà đồng trinh, và đã mang thai bởi quyền năng siêu nhiên, đó là Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-su Christ.

II. Thứ hai, Chúa Giê-su Christ được sanh ra bởi nữ đồng trinh được chứng minh bởi Kinh Thánh Tân Ước.

Xin mở Kinh Thánh ra trong sách Ma-thi-ơ 1:23.

“Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Ma-thi-ơ 1:23).

Ma-ri là người đã hứa gã cho Giô-sép. Trước khi họ lập gia đình “thì người chịu thai bởi Đức Thánh Linh” (Ma-thi-ơ 1:18). Tất nhiên là Giô-sép nghĩ rằng Ma-ri đã gian dâm với một người nào đó. Ông không muốn nàng bị bôi nhục bởi sự xa lánh nàng hay không lập gia đình với nàng. Ông đang suy nghĩ về điều đó và chìm vào trong giấc ngũ. Thiên sứ của Chúa hiện đến và phán với ông, “ngươi chớ ngại lấy Ma-ri làm vợ, vì con mà người chịu thai đó là [bởi] Đức Thánh Linh”. Rồi thiên sứ trích dẩn Ê-sai 7:14 cho Giô-sép,

“Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Ma-thi-ơ 1:23).

Nhân tiện, Bảy Mươi Dịch Giả (Septuagint) chuyễn ngữ đem vào Ma-thi-ơ 1:23 bởi Đức Thánh Linh. Vì “parthenos” trở thành Lời linh cảm của Đức Chúa Trời.

Tôi quyết định đi qua suốt Tân Ước để xem những người mà đã biết rỏ về Chúa Giê-su suy nghĩ về Ngài được sanh ra bởi nữ đồng trinh như sao. Tôi phải ghi chép xuống giấy những gì mà người ta từng sống Ngài đã nghỉ sao về Ngài.

Tôi bắt đầu với Giô-sép, là cha nuôi của Ngài. Giô-sép tin rằng Ngài được sanh ra bởi nữ đồng trinh.

“Khi Giô-sép thức dậy rồi, thì làm y như lời thiên sứ của Chúa đã dặn, mà đem vợ về với mình; song không hề ăn ở với cho đến khi người sanh một trai, thì đặt tên là GIÊ-SU” (Ma-thi-ơ 1:24-25).

Kế đến là Ma-ri. Cũng giống như Giô-sép, lúc đầu nàng không tin rằng còn đồng trinh sao lại mang thai đuợc. Cô nói, “Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó?” (Lu-ca 1:34).

“Thiên sứ truyền rằng: Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, cho nên Con Thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:35).

“Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được” (Lu-ca 1:37).

Rồi chính Ma-ri cũng tin vào việc mang thai còn đồng trinh, cô nói, “Tôi đây là tôi tớ Chúa, xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền”

“Cho nên Con Thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:35).

Rồi, chính Đức Chúa Giê-su, Ngài phán rằng,

“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nổi đã ban Con Một của Ngài; hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời” (Giăng 3:16).

Chúa Giê-su phán rằng, Ngài là “Con Độc Sanh” của Đức Chúa Trời. Rồi, kế đến là chính Đức Chúa Trời, khi Giăng Báp-Tít làm phép Báp-têm cho Chúa Giê-su dưới sông Giô-đanh. Có tiếng của Đức Chúa Trời từ trên trời phán rằng, “Nầy là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Ma-thi-ơ 3:17). Rồi Giăng Báp-Tít nói, “ta đã thấy nên ta làm chứng rằng: Ấy chính Ngài là Con Đức Chúa Trời” (Giăng 1:34). Giô-sép, Ma-ri, chính Chúa Giê-su, Giăng Báp-Tít, và Đức Chúa Cha – tất cả nói rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời – chỉ ra rằng Ngài được sanh ra bởi nữ đồng trinh.

“Cho nên Con Thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:35).

Tôi xem qua suốt Tân Ước. Tôi thấy rằng ma quỉ “kêu la, nói rằng, Chúng tôi có quan hệ gì với Ngài, Giê-su, Con Đức Chúa Trời? Không phải Ngài đến đây để giày vò chúng tôi trước ngày hay sao?” Vâng, ngay cả ma quỉ cũng biết Ngài là Con của Đức Chúa Trời sanh bởi nữ đồng trinh! Khi Chúa Giê-su hỏi Môn-đồ của Ngài, “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” Phi-e-rơ thưa rằng, “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (Ma-thi-ơ 16:16). Sứ-đồ Giăng cũng thế, là người mà biết về Ngài hơn hết. Sứ-đồ Giăng nói, “Nhưng các việc nầy đã chép, để cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Giê-su là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời” (Giăng 20:31). Lần nữa Sứ-đồ Giăng nói, “Vả, chúng tôi vẫn được giao thông với Đức Chúa Cha, và Con Ngài là Đức Chúa Giê-su Christ” (1 Giăng 1:3). Vâng, Sứ-đồ Giăng, là người biết về Ngài hơn hết, nói rằng Chúa Giê-su là Con Đức Chúa Trời sanh bởi nữ đồng trinh. Ông gọi Chúa Giê-su “chỉ Con một” của Đức Chúa Trời (Giăng 1:18). Khi Sứ-đồ Phao-lô được biến đổi, “ông liền giảng dạy trong các nhà hội rằng Đức Chúa Giê-su là Con Đức Trời” (Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 9:20). Và như thế tất cả Môn-đồ của Ngài, hết thảy điều biết “sự thánh đó” sanh bởi Đồng Trinh Ma-ri được “xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:35). Những lời cuối cùng của Chúa Giê-su trên Cây Thập Tự khẳng định điều đó, vì Ngài “kêu lớn tiếng, [và] phán, Hởi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha” (Lu-ca 23:46). Rồi thầy đội mà đóng đinh Ngài trên Cây Thập Tự Giá quỳ gối mà nói rằng, “Người nầy quả thật là Con Đức Chúa Trời” (Mác 15:39).

Chỉ những người mà chế nhạo Phận làm Con của Ngài là những người ác độc đã hành xác Ngài. Những người độc ác đó cố tìm “để giết Ngài, chẳng những vì Ngài phạm ngày Sa-bát thôi, mà lại vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Thân Phụ mình” (Giăng 5:18). Họ la hét Ngài trong khi Ngài chịu khổ, “Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời, hãy xuống khỏi cây thập tự” (Ma-thi-ơ 27:40). Nhưng nếu Ngài xuống khỏi cây thập tự thì sẽ tỏ ra sự ngược lại. Điều đó sẽ tỏ ra rằng Ngài không phải là Con Đức Chúa Trời!

Con Đức Chúa Trời,thánh khiết, sanh ra bởi nữ đồng trinh ngự xuống từ Thiên Đàng, vào lòng của Ma-ri, sanh ra để chết trên Thập Tự Giá đền tội cho tội lỗi của chúng ta. Ngài sống giữa vòng chúng ta là người tội lỗi hèn hạ, và đổ Huyết thánh của Ngài để tẩy sạch chúng ta khỏi mọi tội lỗi.

Nhưng tôi vẫn chưa dẫn giải phần cuối của phân đoạn của chúng ta. Tôi sẽ đưa ra Ê-sai 7:14 như đã trích từ Bảy Mươi Dịch Giả (Septuagint) trong Ma-thi-ơ 1:23,

“Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, và sanh một con trai, rồi người ta sẽ đặt tên con trai đó là Em-ma-nu-ên; nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Ma-thi-ơ 1:23).

Đó là ý nghĩa của chữ Em-ma-nu-ên. Nó có nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.” Đó là đứa trẻ sanh ra bởi nữ đồng trinh. Ngài là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta.”

Khi tôi còn nhỏ tôi đã biết có một Đức Chúa Trời, đang trốn dưới đám hoa sau vườn của bà ngoại/nội của tôi. Tôi nói chuyện cùng Ngài, nhưng không biết Ngài. Tôi chỉ biết là có một Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng nên những bông hoa hấp dẫn đó! Tôi biết có một Đức Chúa Trời khi tôi đứng một mình, tuốc ngoài sa mạc ở Arizona – với mưa rơi trên đất khô nẻ – cùng mùi đất dồi dào, không thể tả khi nó tận hưởng nước mưa. Phải có một Đức Chúa Trời tạo ra những sự kỳ diệu đó. Nhưng tôi không biết Ngài. Tôi biết có Đức Chúa Trời khi tôi té, đổ mồ hôi và khóc lóc, trên bãi cỏ, vào ngày bà ngoại/nội tôi được chôn cất. Tôi có thể cảm giác Ngài ngự xuống. Phải có một Đức Chúa Trời. Nhưng tôi không biết Ngài.

Nhưng vào một buổi sáng Chúa Giê-su đến trên tôi và cứu linh hồn tôi. Đó là sự khác biệt! Danh Ngài là Em-ma-nu-ên – Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta! Huyết của Ngài rửa sạch chúng ta. Lời của Ngài an ủi chúng ta. Sự hiện diện của Ngài làm diệu đi sự sợ hải của chúng ta. Chúa Giê-su – Em-ma-nu-ên của chúng ta – Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta! Tôi yêu thích bài hát mừng Giáng Sinh quyến rủ của Charles Wesley (1707-1788)!

Kìa thiên binh thờ Vua chánh ngôi;
   Cứu Chúa Thánh vĩnh sinh vô đối!
Đồng trinh xưa hoài thai Thánh Tử,
   Đấng loài người bao năm đợi chờ:
Dẫu Chúa có hình thể như ta,
   Vẫn chiếu sáng thần tánh như Cha,
Kẻ tiếp Chúa, Chúa luôn ngự bên,
   Thật rõ Chúa Em-ma-nu-ên.
Khá chú ý khúc ca diệu thay,
   “Mừng Chúa đến hạ trần đêm này.”
(“Thiên Binh Vang Tiếng Hát ‘Hark, the Herald Angels Sing’
      bởi Charles Wesley, 1707-1788).

Tôi nguyện rằng bạn sẽ tin nhận Chúa Giê-su và được cứu khỏi sự hình phạt và tội lỗi, được rữa sạch khỏi mọi điều tội lỗi bởi Huyết thánh khiết của Ngài. Lạy Cha Thánh, con cầu nguyện rằng có ai đó sẽ đến với Con Ngài và được cứu bởi Ngài tối hôm nay. A-men!


Nếu bạn nhận được phước từ bài giảng nầy, Tiến sĩ Hymers rất muốn nghe từ bạn. KHI BẠN VIẾT CHO TIẾN SĨ HYMERS BẠN CẦN PHẢI CHO ÔNG BIẾT BẠN VIẾT TỪ QUỐC GIA NÀO BẰNG KHÔNG ÔNG KHÔNG THỂ TRẢ LỜI E-MAIL CHO BẠN ĐƯỢC. E-mail của Tiến sĩ Hymers tại rlhymersjr@sbcglobal.net (bấm vào đây). (bấm vào đây). Bạn có thể viết cho ông bằng bất cứ ngôn ngữ nào, nhưng nếu có thể bằng tiếng Anh được thì tốt. Nếu bạn muốn viết thư đến Tiến sĩ Hymers và gởi bưu điện thì địa chỉ của ông là P.O. Box 15308, Los Angeles, CA 90015. Bạn có thể gọi điện thoại cho ông tại (818) 352-0452.

(KẾT THÚC BÀI GIẢNG)
Bạn có thể đọc những bài giảng của Tiến sĩ Hymers hằng tuần trên trang mạng
 tại www.sermonsfortheworld.com. Bấm vào “Bài giảng bằng tiếng Việt.”

Bạn có thể gởi điện thư bằng tiếng Anh cho Tiến Sĩ Hymers tại rlhymersjr@sbcglobal.net
hoặc bạn có thể gởi thư về địa chỉ P.O. Box 15308, Los Angeles, CA 90015. Hoặc gọi điện
thoại cho ông tại số (818) 352-0452.

Những bài giảng viết tay nầy không có bản quyền. Bạn có thể dùng họ mà không cần có sự
cho phép của Tiến sĩ Hymers. Nhưng mà tất cả thông điệp qua video đã có bản quyền, và
chỉ được sử dụng khi nào có xin phép.

Đọc Kinh Thánh Trước Bài Giảng bởi Ông Abel Prudhomme: Ma-thi-ơ 1:18-25.
Đơn Ca Trước Bài Giảng bởi Ông Benjamin Kincaid Griffith:
“Thiên Binh Vang Tiếng Hát ‘Hark, the Herald Angels Sing’” (bởi Charles Wesley, 1707-1788).


DÀN BÀI CỦA

NHỮNG BẰNG CHỨNG CỦA SỰ SANH BỞI NỮ ĐỒNG TRINH

PROOFS OF THE VIRGIN BIRTH

bởi Tiến sĩ R.L. Hymers, Jr.
by Dr. R. L. Hymers, Jr.

“Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên” (Ê-sai 7:14).

(Mác 10:27)

I.   Thứ nhất, Chúa Giê-su Christ sanh bởi nữ đồng trinh được chứng
minh bởi Kinh Thánh Cựu Ước, Sáng-thế-ký 3:15.

II.   Thứ hai, Chúa Giê-su Christ sanh bởi nữ đồng trinh được chứng
minh bởi Kinh Thánh Tân Ước, Ma-thi-ơ 1:23, 18; 24-25;
Lu-ca 1:34, 35, 37; Giăng 3:16; Ma-thi-ơ 3:17; Giăng 1:34;
Ma-thi-ơ 16:16; Giăng 20:31; I Giăng 1:3; Giăng 1:18;
Công-Vụ-Các-Sứ-Đồ 9:20; Lu-ca 23:46; Mác 15:39;
Giăng 5:18; Ma-thi-ơ 27:40.